Dự thảo báo cáo nhiệm kỳ III
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỤC TIÊU XÂY DỰNG HỘI VÀ PHONG TRÀO CHỮ THẬP ĐỎ BẢO LỘC (NHIỆM KỲ 2005 – 2010)
Hơn 5 năm qua, kể từ đại hội đại biểu Hội CTĐ thị xã Bảo Lộc (nay là thành phố Bảo Lộc) nhiệm kỳ III đến nay, hoạt động của hệ thống Hội chữ thập đỏ diễn ra với những thuận lợi và khó khăn thách thức. Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội III Đảng bộ thành phố Bảo Lộc, Nghị quyết Đại hội VI của Tỉnh Hội Chữ Thập Đỏ Lâm Đồng, Nghị quyết Đại hội III Thành hội Chữ Thập Đỏ Bảo Lộc, dưới sự lãnh chỉ đạo của Thành uỷ, sự phối hợp cùng UBND thành phố và các đoàn thể chính trị - xã hội, sự chỉ đạo và giúp đỡ của Tỉnh hội CTĐ Lâm Đồng cùng với cố gắng của cán bộ, hội viên Hội CTĐ các cấp trên tinh thần thương yêu, đoàn kết, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đã thực sự đạt được những kết quả khá tốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển KT-XH địa phương. Hiệu quả trong những hoạt động mà Hội mang lại đã góp một phần nhỏ công sức của mình vào việc ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng và cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân trong thành phố. Vì vậy, vai trò của Hội CTĐ ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm, nhân dân tín nhiệm, đồng tình ủng hộ. Điều đó đã tạo nên một động lực to lớn góp phần vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Thành hội đã đề ra trong nhiệm kỳ qua.
- Những thuận lợi trong hoạt động của Hội (nhiệm kỳ 2005 – 2010): - Luật hoạt động Hội CTĐ Việt Nam có hiệu lực từ năm 2009 tạo hành lang pháp lý để Hội mở rộng hoạt động. - Toàn Đảng triển khai tổng kết Chỉ thị 43/BBT Trung ương Đảng đã tạo được sự tin tưởng, yên tâm công tác của cán bộ cơ sở Hội. - Được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Đảng bộ thành phố khoá III, UBND thành phố và sự chỉ đạo của Hội CTĐ Tỉnh Lâm Đồng, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc ngày càng được khẳng định vai trò, vị trí của Hội trong việc thu hút đông đảo hội viên, thanh thiếu niên, tình nguyện viên CTĐXK và các tầng lớp nhân dân trong thành phố góp công, góp của chăm sóc người nghèo khổ neo đơn… Ngày càng có nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài tỉnh đến với Hội để chia sẽ những khó khăn, giúp cho Hội có thêm nhiều điều kiện phục vụ sự nghiệp nhân đạo. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi như trên, Hội CTĐ Bảo Lộc trong nhiệm kỳ qua cũng còn tồn tại một số khó khăn cụ thể như sau: - Một số khó khăn: - BCH khoá III CTĐ Bảo Lộc hoạt động chưa đều, chưa gắn kết đồng bộ theo qui chế, phân công đã đề ra, lực lượng cán bộ nòng cốt của Hội còn mỏng, cơ sở vật chất và điều kiện làm việc còn thiếu thốn, cán bộ chuyên trách thiếu và yếu, công tác lãnh chỉ đạo của Thành hội đối với hoạt động của Hội đôi lúc còn lỏng lẻo từ đó dẫn đến hoạt động thiếu tính đồng bộ, thống nhất, chưa phát huy dân chủ cao, chưa thực sự trở thành khối thống nhất hành động. Vì vậy, Đại hội lần này có trách nhiệm đánh giá đúng mức tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội III (2005 – 2010) làm cơ sở đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức thực hiện trong 5 năm tới, nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng mà trọng tâm là CNH-HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ đó góp phần xây dựng thành phố Bảo Lộc giàu về kinh tế, ổn định về chính trị, tiến bộ xã hội, quốc phòng an ninh vững mạnh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. I. Những thành tích đã đạt được về hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ III: 1. Công tác gây quỹ hội: Từ năm 2005, Thành hội đã bắt đầu củng cố lại công tác gây quỹ. Quỹ Hội được hình thành ở 3 cấp (cấp Thành hội, hội cơ sở và chi hội thôn – buôn, khu phố và trường học). Quỹ hội được thu từ nhiều nguồn, gồm Hội phí, kinh tế Hội các khoản đóng góp, ủng hộ của cán bộ, hội viên, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố bằng tiền mặt, hiện vật, ngoài ra Thành hội còn vận động ủng hộ các quỹ như Quỹ “bảo trợ nạn nhân chất độc da cam”, quỹ “Vì người nghèo”… Trong nhiệm kỳ qua, các cấp Hội đã vận động được cụ thể như sau: - Ở Thành hội các nguồn quỹ còn lại 9.792.700đ.` - Ở Hội cơ sở, chi hội thôn – buôn, khu phố, trường học bằng nhiều hình thức vận động như “Thùng tiền nhân đạo” tại các chi hội mô hình này được thực hiện tại phường Lộc Sơn, Phường II, Xã Đại Lào, Lộc Thanh, B’Lao, Lộc Sơn, Lộc Nga rất hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, các hội cơ sở đã vận động được 316.743.000đ tổ chức cứu trợ đột xuất, thường xuyên cho các đối tượng khó khăn, hoạn nạn, ốm đau … Số hội có quỹ hoạt động chiếm 70%, số quỹ cao nhất là 30.000.000đ và thấp nhất là 2.000.000đ. - Công tác thu hội phí và sử dụng, trích nộp hội phí được thực hiện triển khai rộng khắp ở các hội cơ sở theo hướng dẫn của Tỉnh hội, các đơn vị hội cơ sở làm tốt điển hình là, ĐạmB’ri, Đại Lào, B’Lao, phường II, Phường I, Lộc Thanh,Trường PTTH Lộc Thanh, Trường THPT Lộc Phát…. Trong nhiệm kỳ đã thu được 44.748.000đ, trong số này, ngoài việc trích nộp lên Hội cấp trên số còn lại được sử dụng đúng mục đích tại các chi hội và hội cơ sở. - Hoạt động quỹ “Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam”, quỹ “Vì người nghèo”, quỹ cho cuộc vận động “Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo” Hội CTĐ Bảo Lộc tiến hành vận động được 211.607.000đ, vận động quỹ nhân đạo bằng các hình thức (như thùng tiền nhân đạo, sổ vàng nhân đạo, nuôi heo đất…), với số quỹ 329.176.557đ, gây quỹ từ các hoạt động khác 200.091.000đ. Như vậy tổng trị giá công tác xây dựng quỹ trong nhiệm kỳ là 785.622.557đ. 2. Công tác cứu trợ xã hội: - Do tình hình đời sống nhân dân còn một bộ phận gặp nhiều khó khăn, Thành hội CTĐ Bảo Lộc đã chỉ đạo toàn Hội lấy công tác cứu trợ xã hội làm trọng tâm, chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục, phát huy lòng nhân ái trong tầng lớp nhân dân, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh… để có nhiều điều kiện giúp đỡ những người nghèo khổ vượt qua khó khăn sớm hoà nhập cuộc sống xã hội được thể hiện qua các chương trình hoạt động sau đây: 2.1. Chương trình cứu trợ “Tết vì người nghèo, nạn nhân chất độc da cam” Đây là công tác thường xuyên, hàng năm vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, toàn hội đã tổ chức tuyên truyền, phát động đã được quần chúng nhân dân hưởng ứng và ủng hộ tích cực. Trong hơn 5 năm qua đã vận động được 2.482.929.000 đồng giúp cho 13.822 hộ khó khăn có điều kiện để cùng “vui Xuân đón Tết” với cộng đồng. 2.2. Phong trào vận động quyên góp cứu trợ tại chỗ: Phong trào này đã được các cấp Hội triển khai thường xuyên và rộng khắp. Kết quả đạt được từ năm 2005 – 2010 là: Công tác cứu trợ thường xuyên, cứu trợ tại chổ với các mô hình như: “thùng tiền nhân đạo, mô hình nuôi heo đất ở trường học, hũ gạo tình thương…” Công tác cứu trợ đột xuất giúp cho những trường hợp đặc biệt khó khăn, người gặp hoàn cảnh không may, hoạn nạn, các học sinh, giáo viên bị rủi ro, đau ốm, tang ma, người khuyết tật, người già neo đơn, các đối tượng chính sách, nạn nhân chất độc da cam …, kết quả đạt được từ năm 2005 – 2010 là 2.358.705.690đ giúp cho 5.080 trường hợp. số người tham gia: 1.273 người, cứu trợ các hoạt động nhân đạo xã hội khác như hỗ trợ thùng hàng gia đình, hỗ trợ gạo quần áo, nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh, tặng sổ tiết kiệm… với trị giá 3.490.876.794đ 2.3. Chương trình vận động ngoài tỉnh: Trong hơn 5 năm qua với sự giúp đỡ của Tỉnh hội, Thành Hội cùng các Hội cơ sở, các nhà hảo tâm, các tổ chức tôn giáo, vận động các nguồn ngoài tỉnh đến thăm hỏi tặng quà, khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc và đồng bào nghèo ở địa phương thành phố Bảo Lộc với kết quả đạt được gồm: 56 lượt các đoàn đến, giúp cho 5.339 trường hợp với trị giá là 831.894.000đ Công tác phòng ngừa ứng phó thảm họa, số người tham gia PNƯPTH: 268 số người được phòng ngừa 155 với trị giá 243.070.000đ. 2.4. Thực hiện cuộc vân động “ Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gằn vói một địa chỉ nhân đạo” do TW Hội CTĐ Việt nam phát động trong phạm vi cả nước và kế hoạch triển khai của Hội chữ thập đỏ Lâm Đồng, được sự quan tâm, chỉ đạo của Thành ủy, Ban dân vận Thành ủy. Sau gần 3 năm các cấp hội đã vận động được gần 161 tổ chức, các nhân, cơ quan đơn vị nhận đỡ đầu trợ giúp cho 258 trường hợp với tổng số tiền 1.069.517.000đ. (Trị giá công tác cứu trợ, chăm sóc đời sống nhân dân trong nhiệm kỳ qua là :10.476.992.484đ).
3. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân: Công tác chăm sóc sức khoẻ là một trong những nhiệm vụ mang tính thường xuyên của Hội, được các cấp Hội coi trọng duy trì hoạt động phong phú, đa dạng như: tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh, tổ chức sơ cấp cứu, hiến máu nhân đạo, chương trình nha học đường, phòng khám bệnh CTĐ… Công tác chăm sóc sức khoẻ của Hội đã trở thành phong trào sâu rộng góp phần vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thành phố. 3.1 Truyền thông chăm sóc sức khoẻ: * Thành hội, các cơ sở Hội kết hợp tham gia với ngành y tế địa phương đã làm tốt công tác tuyên truyền bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân như phòng chống các bệnh xã hội như: sốt xuất huyết, bứu cổ, HIV-AIDS, vệ sinh phòng bệnh, VSMT, vệ sinh nguồn nước, vệ sinh răng miệng, an toàn VS thực phẩm … * Bằng các hình thức tuyên truyền như: tập huấn các lớp cho TTNCTĐXK ở xã, phường, trường học, phát thanh, phát tờ rơi, tuyên truyền cho cán bộ, hội viên và nhân dân với 350 buổi nói chuyện và tập huấn cho 115.000 lượt người. Các cơ sở Hội cùng ngành y tế tại chỗ tham gia công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh nguồn nước, khai thông cống rảnh, đào giếng nước sạch, tu sửa các công trình vệ sinh, phát quang bụi rậm, phòng chống HIV/AIDS, dịch cúm gia cầm, dịch bệnh ở gia súc … ở khu dân cư và khu vực các trường học. Với 8.128 lượt hội viên tham gia với tổng trị giá ước tính: 295.232.000đ. 3.2 Công tác sơ cấp cứu, chuyển viện và công tác nha học đường: Tại các Hội cơ sở xã, phường và trường học trong những năm qua đã làm tốt công tác sơ cấp cứu ban đầu cho nhân dân, học sinh, giáo viên bị ngất, tai nạn, đau ốm đột ngột, sơ cấp cứu được 3.528 trường hợp và chuyển viện an toàn 287 trường hợp. Chương trình “Nha học đường” đã được các chi hội trường học phối hợp với ngành y tế địa phương cùng với cán bộ Thành hội, phòng khám CTĐ tổ chức khám, chữa răng cho học sinh bậc tiểu học với số học sinh được khám chữa răng là 1.620 em, số học sinh dùng flour hàng tuần là 18.500 em. Qua công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, công tác huấn luyện sơ cấp cứu, người dân đã biết phòng chống các bệnh thông thường tại chỗ, biết cách xử lý các tai nạn thông thường tự bảo vệ sức khoẻ cho mình và cộng đồng. Duy trì 80% trường học có tủ thuốc cấp cứu, hàng năm phòng khám CTĐ hỗ trợ thuốc cấp cứu trị giá: 61.912.000đ. *Công tác sơ cấp cứu, chuyển viện, nha học đường trong nhiệm kỳ qua là: 225.278.000đ. 3.3 Công tác hiến máu nhân đạo, phòng chống HIV-AIDS: Được sự chỉ đạo của Hội CTĐ Lâm Đồng, UBND thành phố Bảo Lộc, Thành hội đã phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể, hội CTĐ cơ sở, trường học thành lập Ban Chỉ đạo Hiến máu tình nguyện cấp thành phố ; các cơ sở Hội thành lập Ban vận động, tiêu biểu cho các cơ sở hội làm tốt công tác vận động là: Phường II, Phường I, xã Đại lào, xã Lộc thanh, phường Blao, phường Lộc Sơn, trường PTTH Lộc thanh, trường PTTH Lộc phát… đã tổ chức được 16 đợt ra quân hiến máu, với 3.000 lượt người tình nguyện tham gia hiến máu đã mang lại kết quả ngoài dự tính với 839 đơn vị máu sạch tại Bệnh viện II Lâm Đồng ước tính: 210.220.000đ. Đặc biệt, có những tình nguyện viên đã tham gia hiến máu từ 5 đến 10 lần được tôn vinh nhiều lần ở cấp tỉnh và cấp thành phố như: gia đình bà Trương thị Hồng (phường 1), anh Phùng đăng Chỉnh (xã Đambri)….. Trong khi đó, công tác vận động hiến máu nổi lên một số bất cập trong việc chỉ đạo và vận động; tính đồng bộ chưa cao nên kết quả còn hạn chế. Mặc khác, sự phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể có liên quan trong thành phố chưa thật sự thống nhất; các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân có lượng lao động lớn chưa nhiệt tình hưởng ứng. Công tác phòng chống HIV-AIDS, tổ chức nhiều buổi nói chuyện chuyên đề phòng chống AIDS, với 350 người tham gia phát hơn 2.500 tờ rơi. 3.4 Hoạt động phòng khám nhân đạo: - Hoạt động khám tại chỗ và lưu động ở các điểm khám tại các xã, phường với đối tượng chủ yếu là đồng bào dân tộc, người nghèo, người cao tuổi, học sinh… Tổ chức khám thường kỳ và đột xuất cho nhân dân với nguồn vận động trong và ngoài nước; sự hỗ trợ của Tỉnh hội, các nhà hảo tâm, ngân sách địa phương Hội còn tổ chức với các đoàn y, bác sỉ ngoài tỉnh đạc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh… Trong những năm qua, phòng khám CTĐ đã kết hợp chặt chẽ với ngành y tế địa phương tổ chức khám và chữa bệnh cho 17.091 lượt bệnh nhân với chi phí là: 849.516.000đ. Điều đáng trân trọng là các y, bác sĩ, tình nguyện viên làm công tác nhân đạo đều hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, với sự cố gắng của mình, Hội đã trích một phần kinh phí nhỏ hỗ trợ tiền xăng xe cho những tình nguyện viên thầm lặng này. (Trị giá chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong nhiệm kỳ qua là: 1.580.246.000đ.
4. Chương trình phát triển cộng đồng: Hội đã tổ chức thực hiện các chương trình PTCĐ như: xây dựng, sửa chữa và hỗ trợ “nhà Đại đoàn kết”, “giếng nước sạch” và các công trình phúc lợi khác. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã vận động xây dựng được 50 căn nhà “Chữ thập đỏ”; sửa chữa, hỗ trợ xây dựng được 23 căn và các công trình phúc lợi công cộng với tổng trị giá là 1.357.455.500đ.. Các đơn vị đã làm tốt công tác này điển hình là phường II, B’Lao, Lộc Phát, Lộc Sơn, xã Lộc Thanh, Lộc Châu, Lộc Nga và xã ĐamB’ri, Phường I, ông Từ Mỹ UVBCH. 4.1. Chương trình cấp phát xe lăn: Tỉnh hội hỗ trợ và vận động các tổ chức trong và ngoài Tỉnh trong nhiệm kỳ qua đã cấp 47 xe lăn và 5 xe lắc với trị giá 161.000.000đ. 4.2. Chương trình phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng cho NN CĐ DC và người khuyết tật: Trung ương Hội tài trợ, Tỉnh hội tổ chức tập huấn cho cán bộ cơ sở về công tác điều tra trên toàn thành phố lập hồ sơ, tổ chức khám, phân loại đối tượng đối tượng cần phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng, kể cả phục hồi chức năng sau phẫu thuật chỉnh hình. Bệnh viện II Lâm Đồng, trung tâm phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng Quy Nhơn, thành phố Hồ chí Minh đã tổ chức phẫu thuật được 22 trường hợp, tất cả các ca này đều đạt kết quả tốt. Tập huấn PHCN tại cộng đồng cho cán bộ cơ sở và người nhà nạn nhân chất độc da cam: phục hồi cho 56 trường hợp nạn nhân da cam và người tàn tật kết quả rất khả quan, nhiều nạn nhân đã phục hồi và hoà nhập với cộng đồng với chi phí ước tính là 352.950.000đ. 4.3. Thực hiện dự án việc làm cho người khuyết tật và nhóm người dễ bị tổn thương khác (do Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha thông qua Hội chữ thập đỏ Việt Nam tài trợ). - Từ năm 2007-2009 thực hiện dự án trong 3 năm tổ chức 6 đợt hội thảo 285 lượt người tham gia được tư vấn học nghề và việc làm, số người được phỏng vấn 190 người và dược lựa chọn theo tiêu chí trong 3 đợt được 78 người hưởng lợi dược học nghề và tạo việc làm được hỗ trợ ytế cho người khuyết tật, nâng cấp các cơ sở sản xuất có người khuyết tật tham gia lao động, cấp vốn và bộ dùng cụ cho người hưởng lợi sau khi học nghề với tổng chi phí của dự án trên 550.000.000đ.
4.4. Chương trình xoá đói giảm nghèo cho các hộ gia đình có nạn nhân chất độc da cam: Từ năm 2005 đến nay đã cho 24 lượt người vay vốn ban đầu là 99.700.000đ, trong đó có hộ làm ăn hiệu quả đã thoát nghèo, số còn lại gặp khó khăn không có khả năng hoàn trả vốn vay. - Hoạt động quỹ bảo trợ chất độc da cam, kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp, từ phía dự án, quyên góp tại địa phương với tổng quỹ hoat động: 361.021.000đ. - Hoạt động chăm sóc và trợ giúp nạn nhân da cam trong nhiệm kỳ qua đã giúp cho 459 trường hợp với trị giá 218.540.600đ 4.5. Chương trình bếp ăn từ thiện: Thực hiện Đề án của CTĐ Tỉnh Lâm Đồng, Thành hội Bảo Lộc kết hợp cùng với Ban Điều hành Tỉnh, BV II Lâm Đồng thành lập Ban vận động, Ban quản lý và tổ phục vụ bếp ăn tại BV II Lâm Đồng từ 2005 cho đến nay đã vận động được 377.987.160đ (không kể quỹ hỗ trợ của tổ chức y tế thế giới) phục vụ cho hơn 62.680 xuất ăn miễn phí, tiếp tục vận động và phục vụ ngày càng tăng về số lượng và chất lượng cho bệnh nhân nghèo. 4.6. Chương trình vận động trợ giúp nhân dân các nước bị thiên tai, vận động xây dựng công trình nhân đạo:
Thực hiện lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch UBMTTQVN, thư kêu gọi của Chủ tịch Hội CTĐ Việt Nam, Hội CTĐ.thành phố Bảo Lộc đã phối kết hợp với UBMTTQ thành phố Bảo Lộc vận động các tổ chức xã hội, đoàn thể, các nhà hảo tâm trên toàn thành phố, quyên góp ủng hộ nạn nhân động đất và sóng thần tại các nước Đông Nam Á, Cu-ba, động đất Tứ Xuyên Trung Quốc, Nhật bản… từ 2005 đến nay đã vận động được 201.082.000đ đã chuyển cho Hội CTĐ Tỉnh kịp thời giúp đỡ các nạn nhân làm tốt công tác này là cán bộ nhân dân, hội viên CTĐ phường II và xã Đại Lào, Đamb’ri, Lộc Sơn và nhiều đơn vị, tổ chức cá nhân khác. Vận động, đóng góp xây dựng công trình nhân đạo do TW Hội CTĐ Việt Nam phát động như xây dựng nhà lưu niệm Chữ thập đỏ, trung tâm chăm sóc NNCĐDC, tại Sầm Sơn Thanh Hóa trị giá 43.085.000đ
Tổng giá trị công tác phát triển cộng đồng trong nhiệm kỳ qua là: 3.722.731.260đ
Tổng giá trị hoạt động chức năng của Hội trong nhiệm kỳ III (2005 – 2010) là : 16.565.592.301đ,
II. Tiếp tục tăng cường xây dựng tổ chức hội vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng hoạt động: 1. Tăng cường củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức Hội: Năm 2005, Đại hội CTĐ thành phố Bảo Lộc khoá III đã bầu BCH Thành hội gồm 27 UV, trong đó có 9 vị là Thường vụ Thành Hội (có 01 Chủ tịch, 01 phó chủ tịch, 01 UVTT). BCH khoá III đã đưa ra được qui chế hoạt động, phân công cho Thường trực, thường vụ, BKT và các uỷ viên BCH để thống nhất hành động thực hiện Nghị quyết của đại hội. Để tiếp tục xây dựng Hội cơ sở vững mạnh, Thành hội chỉ đạo các hội cơ sở xã, phường và trường học trực thuộc tiến hành Đại hội nhiệm kỳ IV (2007 – 2012) theo điều lệ Hội sửa đổi với 11/11 xã phường và 04 trường học tổ chức đại hội và bầu ra 572 UVBCH cơ sở. Để củng cố BCH, Thường trực và thường vụ Thành hội năm 2008 Hội nghị BCH Hội CTĐ Bảo Lộc bầu bổ xung 06 UVBCH Thành hội do chuyển công tác và qua đời. BCH củng bầu bổ xung 02 UVTV, 02 UVBKT, để đảm bảo cho BCH hoạt động tốt theo đúng Điều lệ hội. Hiện nay, Thường trực Thành hội vẫn duy trì 03 cán bộ biên chế chuyên trách, 01 cán bộ hợp đồng, 11 Chủ tịch CTĐ xã, phường được hưởng phụ cấp xã phường bán chuyên trách. Lực lượng cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách không ngừng phấn đấu học tập để nâng cao trình độ phục vụ tốt công tác hội. Thành hội và các hội cơ sở đã nghiên cứu, hoạt động theo các văn bản chỉ đạo của hội cấp trên bằng các chuyên đề, thực hiện giao ban hàng tháng chỉ đạo các hội cơ sở còn yếu từng bước tháo gỡ những khó khăn, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động của hội cơ sở triển khai hoạt động có hiệu quả. Với những nổ lực nêu trên, tổ chức Hội đã được củng cố, kiện toàn và phát triển rộng khắp trên toàn thành phố tính đến nay toàn thành phố đã có: + 11/11 Hội cơ sở xã, phường đạt tỷ lệ 100% + 5/7 Trường PTTH (mới phát triển 02 trường) đạt tỉ lệ 60% + 119/119 chi hội CTĐ, khu phố, thôn buôn (trong đó có 05 chi hội buôn dân tộc) đạt tỉ lệ 100% + 40/40 chi hội trường học (THCS, tiểu học) đạt tỉ lệ 100% Do hoạt động của Hội đạt được hiệu quả cao về công tác chăm lo đời sống, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển cộng đồng, uy tín của Hội ngày càng được củng cố và nâng cao; được nhiều người, nhiều tổ chức nhiệt tình tham gia vào những hoạt động của Hội. Vì vậy, số lượng hội viên ngày càng tăng lên: hiện nay có 7.783 HV (tăng 2.651 HV so với nhiệm kỳ trước). Các hội cơ sở đã kiểm tra chất lượng và đã cấp được 2.863 thẻ HV đạt tỉ lệ 55,7% (các đơn vị có tỷ lệ HV cao là phường II, phường I, Lộc Sơn, ĐạmB’ri, Đại Lào…). Lực lượng thanh thiếu niên CTĐ đã thật sự phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của mình, thực hiện tốt những chương trình và công tác của Hội thể hiện đúng vai trò nòng cốt, đi đầu trong mọi hoạt động. Đặc biệt là lực lượng thanh niên CTĐ xung kích xã, phường và trường học đã làm tốt công tác tham gia hoạt động nhân đạo, công tác phòng chống dịch bệnh, công tác hiến máu nhân đạo, tham gia các chương trình y tế quốc gia cùng với ngành y tế địa phương. Lực lượng thiếu niên CTĐ xung kích trong trường học cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhân đạo trong và ngoài nhà trường, thông qua các công việc cụ thể như tổ chức gây quỹ giúp bạn vượt khó, vận động quyên góp ủng hộ nạn nhân chất độc dioxin, người tàn tật, mua những sản phẩm do những người mù làm ra… đặc biệt, còn tổ chức học tập về các kiến thức y học thông thường, sơ cấp cứu ban đầu, tham gia hoạt động của các tủ thuốc cấp cứu, bài trừ tệ nạn ma tuý học đường… Hoạt động của Hội từng bước được củng cố và phát triển, thu hút đông đảo các đội, nhóm thanh thiếu niên đến nay đã có: + Số đội TNCTĐ xung kích xã, phường, trường học là 18 đội với 350 em + Số đội thiếu niên CTĐ xung kích trường học là 101 đội với 1.192 em. Nhìn chung, trong nhiệm kỳ qua các cấp hội trong thành phố đã nổ lực vượt qua những khó khăn, trở ngại đã dẫn dắt phong trào CTĐ tại địa phương mình hoạt động có nề nếp, có hiệu quả những nhiệm vụ mà hội thực hiện, đã bám sát mục tiêu và nhiệm vụ của địa phương, phục vụ nhiệm kỳ kinh tế - chính trị - xã hội phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và đã đạt được những kết quả đáng kể. Qua kiểm tra đánh giá các hội cơ sở xã phường và một trường trực thuộc trong nhiệm kỳ qua, cụ thể là các hội cơ sở xã phường và 05 trường trực thuộc: + 8/16 đơn vị xã phường có hoạt động mạnh mẽ về mọi lĩnh vực, đạt tỷ lệ 50% + 7/16 đơn vị hoạt động khá, đạt tỷ lệ 44% + 1/16 đơn vị hoạt động trung bình, đạt tỷ lệ 6% 2. Công tác tuyên truyền: Nhận thực rõ vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền kiến thức về Hội, Thành hội đã thực hiện tốt chỉ đạo của TW Hội, Tỉnh hội, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tại địa phương, trong nhiệm kỳ qua các hoạt động tuyên truyền nổi bật là: - Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về các hoạt động của Hội trên các báo như: báo Lâm Đồng, Tạp chí Nhân đạo, Đài PT-TH Tỉnh, Đài PT-TH địa phương; các đợt phong trào cao điểm, các dự án, các chuyên đề của Hội, các ngày lễ kỷ niệm như 8/5 Ngày Quốc tế CTĐ, 23/11 Ngày Thành lập Hội CTĐ Việt Nam và các ngày lễ lớn khác của dân tộc. - Tuyên truyền Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, hội viên trên toàn thành phố. - Gửi báo viết, ảnh hoạt động của Hội về gương “Người tốt việc tốt” trên các báo TW và địa phương. - Duy trì việc đặt mua Tạp chí Nhân đạo tháng 02 kỳ cung cấp cho các Hội CTĐ cơ sở, cơ quan Đảng, chính quyền và MTTQ thành phố, có 90% Hội cơ sở đặt mua Tạp chí Nhân đạo. - Tổ chức tuyên truyền về Điều lệ Hội CTĐVN, Hội CTĐ Quốc tế bằng nhiều hình thức như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Hội. - Tuyên truyền giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chương trình “Vì người nghèo”, nạn nhân chất độc da cam, người khuyết tật, tuyên truyền vận động ủng hộ lũ lụt, hạn hán và ủng hộ nạn nhân động đất - sóng thần tại Nhật Bản, bão Castrina ở Mỹ, ủng hộ nhân dân CuBa. - Ngoài những đợt tuyên truyền cao điểm, các Hội CTĐ xã, phường, trường học đã thường xuyên tổ chức nói chuyện tập trung, sinh hoạt chuyên đề về Hội, Điều lệ hội, tuyên truyền về các nội dung giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh mỗi năm bình quân có 1.316 buổi tuyên truyền cho 26.925 lượt người tham gia với trị giá gần 75.735.000đ. 3. Công tác huấn luyện – đào tạo cán bộ: Nhằm mục đích nâng cao chất lượng cán bộ, hội viên, thanh thiếu niên CTĐ xung kích, Thành hội được sự giúp đỡ của Tỉnh hội, Trung tâm BDCT thành phố, tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ chuyên môn, các Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ các kiến thức về y học, cụ thể trong nhiệm kỳ qua là: + Cử 80 cán bộ chủ chốt ở cơ sở (như CT, PCT hội cơ sở) tham gia tập huấn công tác hội tại Trung tâm đào tạo tại chức tỉnh Lâm Đồng và Trường Chính trị Tỉnh. + 01 cán bộ tham gia lớp công tác xã hội do TW Hội tổ chức. + 01 cán bộ học lớp nhận thức về Đảng CSVN. + 03 cán bộ được tập huấn công tác thực hiện các dự án do TW hội tài trợ + Kết hợp với TTBDCT thành phố mở 04 lớp về kiến thức Hội cho cán bộ chi hội cơ sở, giáo viên chuyên trách công tác CTĐ trường học, Đội trưởng TTNCTĐXK với 300 lượt người tham gia. + Tổ chức 06 lớp tập huấn về kiến thức Hội, kỹ năng sinh hoạt, sơ cấp cứu ban đầu cho 600 lượt, TTNCTĐ tham gia. + 02 lớp tập huấn về công tác phòng chống HIV-AIDS cho 120 lượt cán bộ, hội viên tham gia. + 03 lớp tập huấn về công tác điều tra nạn nhân chất độc da cam, về người tàn tật với 35 lượt cán bộ Hội tham gia, 01 lớp cho cán bộ và người nhà nạn nhân về công tác phục hội chức năng tại cộng đồng với 60 người tham gia. + Tại các chi hội CTĐ trường học tổ chức trên 1.500 buổi ngoại khoá cho học sinh TTNCTĐXK về kiến thức Hội, sơ cấp cứu ban đầu, một số bệnh thông thường vệ sinh sức khoẻ học đường… cho trên 20.000 lượt em tham gia. + Cán bộ và hội viên CTĐ Bảo Lộc tham gia học tập đầy đủ và triển khai các Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết và văn bản của Hội cấp trên. 4. Công tác thi đua, khen thưởng: Hàng năm, các cấp Hội trong thành phố đều có phát động thi đua trong các đơn vị và cán bộ, hội viên, TTNCTĐXK. Qua phong trào thi đua, các đơn vị Hội cơ sở, chi hội thôn, buôn, khu phố, trường học đạt danh hiệu tiên tiến, tiên tiến xuất sắc ngày càng nhiều. Đặc biệt qua công tác kiểm tra, phúc tra hàng năm nhằm mục đích đánh giá hiệu quả và sự tiến bộ của phong trào CTĐ là một điều cần thiết, vừa đánh giá đúng thực chất phong trào và phát hiện những nhân tố điển hình mới, mô hình hoạt động mới, vừa mang tính cách động viên, khuyến khích các cấp hội phần đấu hơn nữa trong sự nghiệp Nhân đạo. Với những thành tích nổi bật trong hoạt động Hội, nhiệm kỳ vừa qua toàn hội đã được khen tặng bằng nhiều hình thức cụ thể: + Thành hội được nhiều giấy khen của TW hội,Tỉnh hội, của UBMTTQVN Tỉnh, UBND thành phố và UBMTTQ thành phố, cơ quan Thành hội được công nhận là công sở văn hóa. + Trung ương Hội tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp CTĐVN cho 07 cá nhân. + Bằng khen của TW Hội tặng 07 tập thể và 08 cá nhân. + UBND Tỉnh Lâm Đồng tặng 03 bằng khen cho 03 tập thể. + Hội CTĐ Tỉnh tặng giấy khen cho 23 tập thể và 44 cá nhân. + UBND thành phố tặng giấy khen cho 53 tập thể và 69 cá nhân. + Thành hội tặng giấy khen cho 139 tập thể và 293 cá nhân. Ngoài ra còn nhiều hình thức khen thưởng khác của các ban ngành đoàn thể ở thành phố khen tặng, UBND xã, phường và trường học đã kịp thời khen thưởng, động viên các tập thể, cá nhân tích cực tham gia phong trào Hội.
III. Hoạt động quan hệ, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức trong và ngoài thành phố: 1. Công tác tham mưu, chỉ đạo của Hội chữ thập đỏ thành phố: Trong nhiệm kỳ qua, công tác tham mưu đã được hội Chữ thập đỏ Bảo Lộc đặc biệt chú trọng, Hội đã tham mưu xây dựng báo cáo để Thành ủy tổng kết 22 năm thực hiện chỉ thị 14-CT/TU của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tham mưu để Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành các văn bản triển khai thực hiện chỉ thị 43-CT/TƯ của ban Bí thư Trung ương Đảng về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội chữ thập đỏ Việt Nam”; tham mưu để các cấp ủy Đảng và chính quyền các xã, phường chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt của Hội Chữ thập đỏ các cấp tham mưu để Ủy ban nhân dân các địa phương thành lập Ban chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện, hỗ trợ kinh phí cho các xã, phường triển khai vận động hiến máu… Công tác chỉ đạo của các cấp hội cũng có nhiều chuyển biến, đổi mới từ phong cách chỉ đạo đến công tác điều hành, lãnh đạo các cấp Hội đã tập trung hướng về cơ sở, đi sát cơ sở, cùng cơ sở chăm lo cho các đối tượng khó khăn nên đã tạo được bước chuyển quan trọng trong nổ lực kết nối những trái tim nhân ái, những vòng tay yêu thương về với ngôi nhà nhân ái Chữ thập đỏ. 2. Hoạt động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể: Sự nghiệp Nhân đạo là sự nghiệp chung của toàn xã hội, sự phối hợp, liên kết nhằm tạo ra mặt trận Nhân đạo rộng khắp chính là yếu tố nội lực quyết định sự thành công của phong trào. Vì vậy, việc phối hợp giữa Hội CTĐ và các ban ngành, đoàn thể là một yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển vững mạnh của toàn Hội. Trong những năm qua, Thành hội đã chủ động bàn bạc thống nhất với các ban ngành, đoàn thể để ký kết các văn bản liên tịch nhằm phát triển rộng rãi tổ chức hội, nâng cao chất lượng hoạt động Hội đạt hiệu quả cao hơn. 2.1. Đối với ngành Y tế: Thành hội đã ký kết các văn bản liên tịch trong công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cụ thể là: công tác khám chửa bệnh nhân đạo, công tác tiêm chủng mở rộng, công tác nha học đường, phòng chống HIV-AIDS … Ngoài ra, còn kết hợp trong công tác điều trị, khám phân loại các nạn nhân chất độc da cam và người tàn tật, tiến hành phục hồi chức năng tại cộng đồng cho các đối tượng NNCĐDC và người tàn tật. Thành hội đã kết hợp với Bệnh viện II Lâm Đồng làm tốt công tác hiến máu nhân đạo, phẫu thuật chỉnh hình cho các nạn nhân, tổ chức “bếp ăn từ thiện” … 2.2. Chương trình phối hợp công tác CTĐ trường học: Tiếp tục triển khai chương trình phối hợp giữa 3 ngành (CTĐ - ngành GD - Đoàn TNCSHCM) đã được ký kết, thông qua chương trình phối hợp đã quyết định sự phát triển phong trào CTĐ trường học qua những hoạt động nhân đạo trong nhà trường vừa góp phần giáo dục đạo đức và nếp sống mới đối với học sinh, vừa nâng cao chất lượng học tập. Đến nay, hoạt động CTĐ trường học đã thực sự phát huy hiệu quả và có những đóng góp xứng đáng góp phần vào thành tích chung của phong trào CTĐ toàn thành phố. 2.3. Chương trình phối hợp với Đoàn TNCSHCM: Thông qua hoạt động của Đoàn, Hội LHTN và TTNCTĐXK đây là hoạt động thường xuyên gắn kết tổ chức thống nhất hành động cụ thể bằng các hoạt động sau: Tổ chức kết hợp công tác hoạt động “Mùa hè xanh”, “Tháng thanh niên” và các đợt công tác như: khám chữa bệnh nhân đạo, hiến máu nhân đạo, tập huấn cho đoàn viên thanh niên, giáo viên tổng phụ trách về kiến thức hội, phương pháp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, sơ cấp cứu. Tổ chức hội trại, seminar, hoạt động giao lưu, tổ chức tập huấn, kiểm tra công tác Đoàn, hội, hội CTĐ trường học hàng năm… 2.4. Công tác phối kết hợp với UBMTTQ thành phố và các đoàn thể: Đây là một trong những nhiệm vụ chung trong công tác tập họp quần chúng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã góp phần thực hiện xây dựng “tình làng, nghĩa xóm” giúp đỡ lẩn nhau những lúc khó khăn ngay trong cộng đồng dân cư ở địa phương bằng việc làm cụ thể: Công tác cứu trợ tại chỗ; công tác vận động “Vì người nghèo” như xây dựng nhà Đại đoàn kết, vận động ủng hộ lũ lụt, thiên tai trong và ngoài nước, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng, các gia đình cựu chiến binh khó khăn và nhiễm chất độc da cam… 2.5. Phối hợp với các tổ chức xã hội trong và ngoài thành phố: Để phát huy nguồn ngoại lực có hiệu quả, Hội đã tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài, mở rộng mối quan hệ và tiếp nhận nhiều nguồn ủng hộ của cá nhân, tổ chức từ thiện ở TP.HCM và các tổ chức tôn giáo trong việc cứu trợ, nâng cao hơn nữa công tác chữa bệnh cho đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa trong thành phố và các huyện lân cận. IV. Đánh giá tổng quát và những kinh nghiệm của phong trào CTĐ thành phố Bảo Lộc nhiệm kỳ III (2005 – 2010): 1. Kết quả đạt được: Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, UBND thành phố, sự chỉ đạo của Hội cấp trên, sự phối hợp hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể, sự giúp đỡ các tổ chức trong và ngoài thành phố và với sự nổ lực vươn lên của toàn thể cán bộ, hội viên, thanh thiếu niên CTĐ xung kích, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tổ chức Hội ngày càng được củng cố, kiện toàn từ Thành hội đến các hội cơ sở. Các chương trình phối hợp ngày càng được nâng cao về số lượng, chất lượng và chú trọng đến việc phát triển toàn diện Hội CTĐ cơ sở phát triển 100% tại xã, phường và trường học trực thuộc, 100% chi hội CTĐ thôn – buôn, khu phố 40/40 chi hội trường học đạt tỷ lệ 100%. Nhiều mô hình mới được nhân rộng ra trong toàn hội, nhiều nhân tố mới, tấm gương người tốt, việc tốt xuất hiện. Đó là những yếu tố cổ vũ, động viên, khích lệ và thu hút động đảo các tầng lớp nhân dân tham gia làm việc thiện. Chất lượng hoạt động Hội ngày càng được nâng cấp và có hiệu quả thiết thực. Trong nhiệm kỳ III (2005-2011) hiệu quả hoạt động đã lên đến 16.565.592.301đ (tăng gấp 4 lần so với nhiệm kỳ trước). Trong đó, đặc biệt là công tác chăm sóc sức khoẻ và đời sống nhân dân, công tác phát triển cộng đồng. Trong những năm qua, hoạt động của Hội thật sự đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ở địa phương, phát huy truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc. Qua đó, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc ngày càng khẳng định vị trí, vai trò đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đã góp phần tích cực vào trong cuộc phát triển KT-XH-CT ở địa phương. 2. Những hạn chế cần được khắc phục: Ø Bộ máy tổ chức: - Đội ngũ cán bộ từ Thành hội đến hội cơ sở còn thiếu, chưa đáp ứng với những yêu cầu, nhu cầu phát triển của phong trào CTĐ trong giai đoạn mới. - Tổ chức Hội, nhất là cấp cơ sở hoạt động chưa đều, chưa vững chắc, tỷ lệ các đơn vị trung bình yếu còn cao, công tác phát triển Hội viên cả về số lượng và chất lượng còn chậm, việc nhân điển hình tiên tiến và áp dụng các mô hình mới chưa được nhiều. - Việc tập trung chỉ đạo điểm chưa được Thành hội thực hiện thường xuyên, chưa có sự chỉ đạo sâu sát đến cơ sở. - Hoạt động một số hội cơ sở xã, phường, trường học chưa thật sự chủ động, còn trông chờ vào cấp trên. Việc tổng kết đánh giá các hoạt động của Hội còn chưa đầy đủ và còn hạn chế dẫn đến báo cáo kết quả còn chậm. Ø Công tác vận động: - Công tác vận động từ các nguồn địa phương còn thấp chưa chủ động và phát huy được nội lực, nó đã ảnh hưởng đến việc cứu trợ thường xuyên cũng như đột xuất của Hội cơ sở mà chủ yếu dựa vào nguồn ngoại lực do hội cấp trên, các tổ chức trong và ngoài Tỉnh, các dự án của các tổ chức và hội cấp trên. Vấn đề này cần được các cấp hội không phải chỉ nhìn nhận suông mà cần phải nghiên cứu, tăng cường phát huy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, công tác vận động các nguồn lực địa phương từ đó tăng cường và phát huy truyền thống nhân ái, lá lành đùm lá rách, để góp phần vào chủ trương xây dựng cuộc sống văn hoá mới ở từng khu dân cư địa phương. - Cán bộ hội cơ sở chưa được đào tạo căn bản, hiểu biết về công việc của hội chưa sâu nên công tác hội còn nhiều hạn chế, trong những năm đầu của nhiệm kỳ còn khó khăn về cơ chế chính sách đối với cán bộ cơ sở cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của phong trào. Công tác vận động quần chúng, công tác tuyên truyền chưa được đẩy mạnh do đó, chưa thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào Hội không duy trì ổn định lực lượng cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, TTN Chữ thập đỏ xung kích. - Sự phối hợp hoạt động giữa các ban ngành, đoàn thể và Thành hội cũng như hội cơ sở chưa chặt chẽ và thường xuyên, thậm chí còn một số hoạt động chồng chéo, từ đó chưa thật sự phát huy tác dụng của công tác phối kết hợp. 3. Nguyên nhân của sự tiến bộ, hạn chế và những kinh nghiệm: Ø Nguyên nhân của sự tiến bộ: - Do được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ đúng mức của các ban ngành, đoàn thể, sự tín nhiệm và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân… đã tạo điều kiện cho Hội hoạt động. - Sự giúp đỡ kịp thời, có hiệu quả của TW hội, Tỉnh hội, các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố, các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, … đã giúp đỡ cho hội về vật chất và tinh thần để hội thực hiện có hiệu quả hoạt động xã hội, nhân đạo… - Sự phấn đấu, nổ lực vươn lên của toàn thể cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, TTNCTĐXK toàn thành phố là một tập hợp sức mạnh khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ của Hội trong nhiệm kỳ qua. Ø Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại: - Một số cấp ủy và chính quyền địa phương còn chưa có sự quan tâm đúng mức đối với công tác Hội, có nơi có lúc còn cho việc từ thiện xã hội là việc của khối Dân vận và Mặt trận, phần lớn ý kiến tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương của một số cán bộ cơ sở chưa tốt, còn nhiều hạn chế và thiếu sót, về hoạt động của hội. - Việc tổ chức thực hiện các chương trình hoạt động tại một số Hội cơ sở chưa tốt, thiếu nhạy bén, thiếu tính chủ động. Nhân lực thiếu, kinh phí và phương tiện hoạt động chưa đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới. 4. Những kinh nghiệm trong hoạt động của Hội nhiệm kỳ qua: - Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền luôn luôn là nhân tố quyết định cho sự phát triển và trưởng thành của Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc. Qua thực tế cho thấy, nơi nào có sự quan tâm đúng mức, nơi đó có phong trào mạnh. Nhưng muốn tranh thủ được sự quan tâm ấy, các cấp Hội cần phải làm tốt công tác tham mưu, chủ động trong hoạt động Hội và phải tự mình khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội bằng các hoạt động có hiệu quả thiết thực. - Hoạt động của Hội phải thực sự thiết thực và thực hiện tốt sự lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, phải gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng các nhu cầu bức xúc của nhân dân trong từng hoàn cảnh cụ thể. - Hoạt động của Hội phải lấy Hội cơ sở làm điểm xuất phát, có như vậy mới phát huy hết nội lực, tiềm năng và sức mạnh trong nhân dân, Hội cơ sở vững mạnh là yếu tố then chốt quyết định sự lớn mạnh của toàn Hội. Như vậy, toàn Hội cần phải làm những công việc sau: + Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và đạo đức, vững vàng về chuyên môn, có năng lực vận động quần chúng… để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng cao của công tác Hội. + Tiếp tục sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với các ban ngành, đoàn thể là một yếu tố rất cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và xã hội hoá công tác từ thiện, nhân đạo. + Hoạt động nhân đạo không thể thiếu yếu tố vật chất, do đó, các cấp Hội cần phải tăng cường hơn nữa công tác gây quỹ Hội, tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng mối quan hệ với các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố, dựa vào sức mạnh của nhân dân từ đó tạo sức mạnh tổng hợp để Hội có khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Hơn 5 năm qua, kể từ đại hội đại biểu Hội CTĐ thị xã Bảo Lộc (nay là thành phố Bảo Lộc) nhiệm kỳ III đến nay, hoạt động của hệ thống Hội chữ thập đỏ diễn ra với những thuận lợi và khó khăn thách thức. Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội III Đảng bộ thành phố Bảo Lộc, Nghị quyết Đại hội VI của Tỉnh Hội Chữ Thập Đỏ Lâm Đồng, Nghị quyết Đại hội III Thành hội Chữ Thập Đỏ Bảo Lộc, dưới sự lãnh chỉ đạo của Thành uỷ, sự phối hợp cùng UBND thành phố và các đoàn thể chính trị - xã hội, sự chỉ đạo và giúp đỡ của Tỉnh hội CTĐ Lâm Đồng cùng với cố gắng của cán bộ, hội viên Hội CTĐ các cấp trên tinh thần thương yêu, đoàn kết, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đã thực sự đạt được những kết quả khá tốt góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển KT-XH địa phương. Hiệu quả trong những hoạt động mà Hội mang lại đã góp một phần nhỏ công sức của mình vào việc ổn định chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng và cải thiện đời sống của một bộ phận nhân dân trong thành phố. Vì vậy, vai trò của Hội CTĐ ngày càng được Đảng, Nhà nước quan tâm, nhân dân tín nhiệm, đồng tình ủng hộ. Điều đó đã tạo nên một động lực to lớn góp phần vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Thành hội đã đề ra trong nhiệm kỳ qua.
- Những thuận lợi trong hoạt động của Hội (nhiệm kỳ 2005 – 2010):
- Luật hoạt động Hội CTĐ Việt Nam có hiệu lực từ năm 2009 tạo hành lang pháp lý để Hội mở rộng hoạt động.
- Toàn Đảng triển khai tổng kết Chỉ thị 43/BBT Trung ương Đảng đã tạo được sự tin tưởng, yên tâm công tác của cán bộ cơ sở Hội.
- Được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Đảng bộ thành phố khoá III, UBND thành phố và sự chỉ đạo của Hội CTĐ Tỉnh Lâm Đồng, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc ngày càng được khẳng định vai trò, vị trí của Hội trong việc thu hút đông đảo hội viên, thanh thiếu niên, tình nguyện viên CTĐXK và các tầng lớp nhân dân trong thành phố góp công, góp của chăm sóc người nghèo khổ neo đơn… Ngày càng có nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài tỉnh đến với Hội để chia sẽ những khó khăn, giúp cho Hội có thêm nhiều điều kiện phục vụ sự nghiệp nhân đạo.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi như trên, Hội CTĐ Bảo Lộc trong nhiệm kỳ qua cũng còn tồn tại một số khó khăn cụ thể như sau:
- Một số khó khăn:
- BCH khoá III CTĐ Bảo Lộc hoạt động chưa đều, chưa gắn kết đồng bộ theo qui chế, phân công đã đề ra, lực lượng cán bộ nòng cốt của Hội còn mỏng, cơ sở vật chất và điều kiện làm việc còn thiếu thốn, cán bộ chuyên trách thiếu và yếu, công tác lãnh chỉ đạo của Thành hội đối với hoạt động của Hội đôi lúc còn lỏng lẻo từ đó dẫn đến hoạt động thiếu tính đồng bộ, thống nhất, chưa phát huy dân chủ cao, chưa thực sự trở thành khối thống nhất hành động.
Vì vậy, Đại hội lần này có trách nhiệm đánh giá đúng mức tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội III (2005 – 2010) làm cơ sở đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức thực hiện trong 5 năm tới, nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng mà trọng tâm là CNH-HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ đó góp phần xây dựng thành phố Bảo Lộc giàu về kinh tế, ổn định về chính trị, tiến bộ xã hội, quốc phòng an ninh vững mạnh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
I. Những thành tích đã đạt được về hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ III:
1. Công tác gây quỹ hội:
Từ năm 2005, Thành hội đã bắt đầu củng cố lại công tác gây quỹ. Quỹ Hội được hình thành ở 3 cấp (cấp Thành hội, hội cơ sở và chi hội thôn – buôn, khu phố và trường học). Quỹ hội được thu từ nhiều nguồn, gồm Hội phí, kinh tế Hội các khoản đóng góp, ủng hộ của cán bộ, hội viên, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố bằng tiền mặt, hiện vật, ngoài ra Thành hội còn vận động ủng hộ các quỹ như Quỹ “bảo trợ nạn nhân chất độc da cam”, quỹ “Vì người nghèo”…
Trong nhiệm kỳ qua, các cấp Hội đã vận động được cụ thể như sau:
- Ở Thành hội các nguồn quỹ còn lại 9.792.700đ.`
- Ở Hội cơ sở, chi hội thôn – buôn, khu phố, trường học bằng nhiều hình thức vận động như “Thùng tiền nhân đạo” tại các chi hội mô hình này được thực hiện tại phường Lộc Sơn, Phường II, Xã Đại Lào, Lộc Thanh, B’Lao, Lộc Sơn, Lộc Nga rất hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, các hội cơ sở đã vận động được 316.743.000đ tổ chức cứu trợ đột xuất, thường xuyên cho các đối tượng khó khăn, hoạn nạn, ốm đau … Số hội có quỹ hoạt động chiếm 70%, số quỹ cao nhất là 30.000.000đ và thấp nhất là 2.000.000đ.
- Công tác thu hội phí và sử dụng, trích nộp hội phí được thực hiện triển khai rộng khắp ở các hội cơ sở theo hướng dẫn của Tỉnh hội, các đơn vị hội cơ sở làm tốt điển hình là, ĐạmB’ri, Đại Lào, B’Lao, phường II, Phường I, Lộc Thanh,Trường PTTH Lộc Thanh, Trường THPT Lộc Phát…. Trong nhiệm kỳ đã thu được 44.748.000đ, trong số này, ngoài việc trích nộp lên Hội cấp trên số còn lại được sử dụng đúng mục đích tại các chi hội và hội cơ sở.
- Hoạt động quỹ “Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam”, quỹ “Vì người nghèo”, quỹ cho cuộc vận động “Mỗi tổ chức, cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo” Hội CTĐ Bảo Lộc tiến hành vận động được 211.607.000đ, vận động quỹ nhân đạo bằng các hình thức (như thùng tiền nhân đạo, sổ vàng nhân đạo, nuôi heo đất…), với số quỹ 329.176.557đ, gây quỹ từ các hoạt động khác 200.091.000đ. Như vậy tổng trị giá công tác xây dựng quỹ trong nhiệm kỳ là 785.622.557đ.
2. Công tác cứu trợ xã hội:
- Do tình hình đời sống nhân dân còn một bộ phận gặp nhiều khó khăn, Thành hội CTĐ Bảo Lộc đã chỉ đạo toàn Hội lấy công tác cứu trợ xã hội làm trọng tâm, chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục, phát huy lòng nhân ái trong tầng lớp nhân dân, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh… để có nhiều điều kiện giúp đỡ những người nghèo khổ vượt qua khó khăn sớm hoà nhập cuộc sống xã hội được thể hiện qua các chương trình hoạt động sau đây:
2.1. Chương trình cứu trợ “Tết vì người nghèo, nạn nhân chất độc da cam”
Đây là công tác thường xuyên, hàng năm vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, toàn hội đã tổ chức tuyên truyền, phát động đã được quần chúng nhân dân hưởng ứng và ủng hộ tích cực. Trong hơn 5 năm qua đã vận động được 2.482.929.000 đồng giúp cho 13.822 hộ khó khăn có điều kiện để cùng “vui Xuân đón Tết” với cộng đồng.
2.2. Phong trào vận động quyên góp cứu trợ tại chỗ:
Phong trào này đã được các cấp Hội triển khai thường xuyên và rộng khắp. Kết quả đạt được từ năm 2005 – 2010 là:
Công tác cứu trợ thường xuyên, cứu trợ tại chổ với các mô hình như: “thùng tiền nhân đạo, mô hình nuôi heo đất ở trường học, hũ gạo tình thương…”
Công tác cứu trợ đột xuất giúp cho những trường hợp đặc biệt khó khăn, người gặp hoàn cảnh không may, hoạn nạn, các học sinh, giáo viên bị rủi ro, đau ốm, tang ma, người khuyết tật, người già neo đơn, các đối tượng chính sách, nạn nhân chất độc da cam …, kết quả đạt được từ năm 2005 – 2010 là 2.358.705.690đ giúp cho 5.080 trường hợp. số người tham gia: 1.273 người, cứu trợ các hoạt động nhân đạo xã hội khác như hỗ trợ thùng hàng gia đình, hỗ trợ gạo quần áo, nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh, tặng sổ tiết kiệm… với trị giá 3.490.876.794đ
2.3. Chương trình vận động ngoài tỉnh:
Trong hơn 5 năm qua với sự giúp đỡ của Tỉnh hội, Thành Hội cùng các Hội cơ sở, các nhà hảo tâm, các tổ chức tôn giáo, vận động các nguồn ngoài tỉnh đến thăm hỏi tặng quà, khám chữa bệnh miễn phí cho đồng bào dân tộc và đồng bào nghèo ở địa phương thành phố Bảo Lộc với kết quả đạt được gồm: 56 lượt các đoàn đến, giúp cho 5.339 trường hợp với trị giá là 831.894.000đ
Công tác phòng ngừa ứng phó thảm họa, số người tham gia PNƯPTH: 268 số người được phòng ngừa 155 với trị giá 243.070.000đ.
2.4. Thực hiện cuộc vân động “ Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gằn vói một địa chỉ nhân đạo” do TW Hội CTĐ Việt nam phát động trong phạm vi cả nước và kế hoạch triển khai của Hội chữ thập đỏ Lâm Đồng, được sự quan tâm, chỉ đạo của Thành ủy, Ban dân vận Thành ủy.
Sau gần 3 năm các cấp hội đã vận động được gần 161 tổ chức, các nhân, cơ quan đơn vị nhận đỡ đầu trợ giúp cho 258 trường hợp với tổng số tiền 1.069.517.000đ.
(Trị giá công tác cứu trợ, chăm sóc đời sống nhân dân trong nhiệm kỳ qua là :10.476.992.484đ).
3. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Công tác chăm sóc sức khoẻ là một trong những nhiệm vụ mang tính thường xuyên của Hội, được các cấp Hội coi trọng duy trì hoạt động phong phú, đa dạng như: tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh, tổ chức sơ cấp cứu, hiến máu nhân đạo, chương trình nha học đường, phòng khám bệnh CTĐ… Công tác chăm sóc sức khoẻ của Hội đã trở thành phong trào sâu rộng góp phần vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thành phố.
3.1 Truyền thông chăm sóc sức khoẻ:
* Thành hội, các cơ sở Hội kết hợp tham gia với ngành y tế địa phương đã làm tốt công tác tuyên truyền bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân như phòng chống các bệnh xã hội như: sốt xuất huyết, bứu cổ, HIV-AIDS, vệ sinh phòng bệnh, VSMT, vệ sinh nguồn nước, vệ sinh răng miệng, an toàn VS thực phẩm …
* Bằng các hình thức tuyên truyền như: tập huấn các lớp cho TTNCTĐXK ở xã, phường, trường học, phát thanh, phát tờ rơi, tuyên truyền cho cán bộ, hội viên và nhân dân với 350 buổi nói chuyện và tập huấn cho 115.000 lượt người. Các cơ sở Hội cùng ngành y tế tại chỗ tham gia công tác phòng bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh nguồn nước, khai thông cống rảnh, đào giếng nước sạch, tu sửa các công trình vệ sinh, phát quang bụi rậm, phòng chống HIV/AIDS, dịch cúm gia cầm, dịch bệnh ở gia súc … ở khu dân cư và khu vực các trường học. Với 8.128 lượt hội viên tham gia với tổng trị giá ước tính: 295.232.000đ.
3.2 Công tác sơ cấp cứu, chuyển viện và công tác nha học đường:
Tại các Hội cơ sở xã, phường và trường học trong những năm qua đã làm tốt công tác sơ cấp cứu ban đầu cho nhân dân, học sinh, giáo viên bị ngất, tai nạn, đau ốm đột ngột, sơ cấp cứu được 3.528 trường hợp và chuyển viện an toàn 287 trường hợp. Chương trình “Nha học đường” đã được các chi hội trường học phối hợp với ngành y tế địa phương cùng với cán bộ Thành hội, phòng khám CTĐ tổ chức khám, chữa răng cho học sinh bậc tiểu học với số học sinh được khám chữa răng là 1.620 em, số học sinh dùng flour hàng tuần là 18.500 em. Qua công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, công tác huấn luyện sơ cấp cứu, người dân đã biết phòng chống các bệnh thông thường tại chỗ, biết cách xử lý các tai nạn thông thường tự bảo vệ sức khoẻ cho mình và cộng đồng.
Duy trì 80% trường học có tủ thuốc cấp cứu, hàng năm phòng khám CTĐ hỗ trợ thuốc cấp cứu trị giá: 61.912.000đ.
*Công tác sơ cấp cứu, chuyển viện, nha học đường trong nhiệm kỳ qua là: 225.278.000đ.
3.3 Công tác hiến máu nhân đạo, phòng chống HIV-AIDS:
Được sự chỉ đạo của Hội CTĐ Lâm Đồng, UBND thành phố Bảo Lộc, Thành hội đã phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể, hội CTĐ cơ sở, trường học thành lập Ban Chỉ đạo Hiến máu tình nguyện cấp thành phố ; các cơ sở Hội thành lập Ban vận động, tiêu biểu cho các cơ sở hội làm tốt công tác vận động là: Phường II, Phường I, xã Đại lào, xã Lộc thanh, phường Blao, phường Lộc Sơn, trường PTTH Lộc thanh, trường PTTH Lộc phát… đã tổ chức được 16 đợt ra quân hiến máu, với 3.000 lượt người tình nguyện tham gia hiến máu đã mang lại kết quả ngoài dự tính với 839 đơn vị máu sạch tại Bệnh viện II Lâm Đồng ước tính: 210.220.000đ.
Đặc biệt, có những tình nguyện viên đã tham gia hiến máu từ 5 đến 10 lần được tôn vinh nhiều lần ở cấp tỉnh và cấp thành phố như: gia đình bà Trương thị Hồng (phường 1), anh Phùng đăng Chỉnh (xã Đambri)….. Trong khi đó, công tác vận động hiến máu nổi lên một số bất cập trong việc chỉ đạo và vận động; tính đồng bộ chưa cao nên kết quả còn hạn chế. Mặc khác, sự phối kết hợp với các ban ngành, đoàn thể có liên quan trong thành phố chưa thật sự thống nhất; các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân có lượng lao động lớn chưa nhiệt tình hưởng ứng.
Công tác phòng chống HIV-AIDS, tổ chức nhiều buổi nói chuyện chuyên đề phòng chống AIDS, với 350 người tham gia phát hơn 2.500 tờ rơi.
3.4 Hoạt động phòng khám nhân đạo:
- Hoạt động khám tại chỗ và lưu động ở các điểm khám tại các xã, phường với đối tượng chủ yếu là đồng bào dân tộc, người nghèo, người cao tuổi, học sinh… Tổ chức khám thường kỳ và đột xuất cho nhân dân với nguồn vận động trong và ngoài nước; sự hỗ trợ của Tỉnh hội, các nhà hảo tâm, ngân sách địa phương Hội còn tổ chức với các đoàn y, bác sỉ ngoài tỉnh đạc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh… Trong những năm qua, phòng khám CTĐ đã kết hợp chặt chẽ với ngành y tế địa phương tổ chức khám và chữa bệnh cho 17.091 lượt bệnh nhân với chi phí là: 849.516.000đ. Điều đáng trân trọng là các y, bác sĩ, tình nguyện viên làm công tác nhân đạo đều hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, với sự cố gắng của mình, Hội đã trích một phần kinh phí nhỏ hỗ trợ tiền xăng xe cho những tình nguyện viên thầm lặng này.
(Trị giá chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong nhiệm kỳ qua là: 1.580.246.000đ.
4. Chương trình phát triển cộng đồng:
Hội đã tổ chức thực hiện các chương trình PTCĐ như: xây dựng, sửa chữa và hỗ trợ “nhà Đại đoàn kết”, “giếng nước sạch” và các công trình phúc lợi khác.
Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã vận động xây dựng được 50 căn nhà “Chữ thập đỏ”; sửa chữa, hỗ trợ xây dựng được 23 căn và các công trình phúc lợi công cộng với tổng trị giá là 1.357.455.500đ.. Các đơn vị đã làm tốt công tác này điển hình là phường II, B’Lao, Lộc Phát, Lộc Sơn, xã Lộc Thanh, Lộc Châu, Lộc Nga và xã ĐamB’ri, Phường I, ông Từ Mỹ UVBCH.
4.1. Chương trình cấp phát xe lăn:
Tỉnh hội hỗ trợ và vận động các tổ chức trong và ngoài Tỉnh trong nhiệm kỳ qua đã cấp 47 xe lăn và 5 xe lắc với trị giá 161.000.000đ.
4.2. Chương trình phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng cho NN CĐ DC và người khuyết tật:
Trung ương Hội tài trợ, Tỉnh hội tổ chức tập huấn cho cán bộ cơ sở về công tác điều tra trên toàn thành phố lập hồ sơ, tổ chức khám, phân loại đối tượng đối tượng cần phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng, kể cả phục hồi chức năng sau phẫu thuật chỉnh hình. Bệnh viện II Lâm Đồng, trung tâm phẫu thuật chỉnh hình và phục hồi chức năng Quy Nhơn, thành phố Hồ chí Minh đã tổ chức phẫu thuật được 22 trường hợp, tất cả các ca này đều đạt kết quả tốt. Tập huấn PHCN tại cộng đồng cho cán bộ cơ sở và người nhà nạn nhân chất độc da cam: phục hồi cho 56 trường hợp nạn nhân da cam và người tàn tật kết quả rất khả quan, nhiều nạn nhân đã phục hồi và hoà nhập với cộng đồng với chi phí ước tính là 352.950.000đ.
4.3. Thực hiện dự án việc làm cho người khuyết tật và nhóm người dễ bị tổn thương khác (do Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha thông qua Hội chữ thập đỏ Việt Nam tài trợ).
- Từ năm 2007-2009 thực hiện dự án trong 3 năm tổ chức 6 đợt hội thảo 285 lượt người tham gia được tư vấn học nghề và việc làm, số người được phỏng vấn 190 người và dược lựa chọn theo tiêu chí trong 3 đợt được 78 người hưởng lợi dược học nghề và tạo việc làm được hỗ trợ ytế cho người khuyết tật, nâng cấp các cơ sở sản xuất có người khuyết tật tham gia lao động, cấp vốn và bộ dùng cụ cho người hưởng lợi sau khi học nghề với tổng chi phí của dự án trên 550.000.000đ.
4.4. Chương trình xoá đói giảm nghèo cho các hộ gia đình có nạn nhân chất độc da cam:
Từ năm 2005 đến nay đã cho 24 lượt người vay vốn ban đầu là 99.700.000đ, trong đó có hộ làm ăn hiệu quả đã thoát nghèo, số còn lại gặp khó khăn không có khả năng hoàn trả vốn vay.
- Hoạt động quỹ bảo trợ chất độc da cam, kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp, từ phía dự án, quyên góp tại địa phương với tổng quỹ hoat động: 361.021.000đ.
- Hoạt động chăm sóc và trợ giúp nạn nhân da cam trong nhiệm kỳ qua đã giúp cho 459 trường hợp với trị giá 218.540.600đ
4.5. Chương trình bếp ăn từ thiện:
Thực hiện Đề án của CTĐ Tỉnh Lâm Đồng, Thành hội Bảo Lộc kết hợp cùng với Ban Điều hành Tỉnh, BV II Lâm Đồng thành lập Ban vận động, Ban quản lý và tổ phục vụ bếp ăn tại BV II Lâm Đồng từ 2005 cho đến nay đã vận động được 377.987.160đ (không kể quỹ hỗ trợ của tổ chức y tế thế giới) phục vụ cho hơn 62.680 xuất ăn miễn phí, tiếp tục vận động và phục vụ ngày càng tăng về số lượng và chất lượng cho bệnh nhân nghèo.
4.6. Chương trình vận động trợ giúp nhân dân các nước bị thiên tai, vận động xây dựng công trình nhân đạo:
Thực hiện lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch UBMTTQVN, thư kêu gọi của Chủ tịch Hội CTĐ Việt Nam, Hội CTĐ.thành phố Bảo Lộc đã phối kết hợp với UBMTTQ thành phố Bảo Lộc vận động các tổ chức xã hội, đoàn thể, các nhà hảo tâm trên toàn thành phố, quyên góp ủng hộ nạn nhân động đất và sóng thần tại các nước Đông Nam Á, Cu-ba, động đất Tứ Xuyên Trung Quốc, Nhật bản… từ 2005 đến nay đã vận động được 201.082.000đ đã chuyển cho Hội CTĐ Tỉnh kịp thời giúp đỡ các nạn nhân làm tốt công tác này là cán bộ nhân dân, hội viên CTĐ phường II và xã Đại Lào, Đamb’ri, Lộc Sơn và nhiều đơn vị, tổ chức cá nhân khác.
Vận động, đóng góp xây dựng công trình nhân đạo do TW Hội CTĐ Việt Nam phát động như xây dựng nhà lưu niệm Chữ thập đỏ, trung tâm chăm sóc NNCĐDC, tại Sầm Sơn Thanh Hóa trị giá 43.085.000đ
Tổng giá trị công tác phát triển cộng đồng trong nhiệm kỳ qua là: 3.722.731.260đ
Tổng giá trị hoạt động chức năng của Hội trong nhiệm kỳ III (2005 – 2010) là : 16.565.592.301đ,
II. Tiếp tục tăng cường xây dựng tổ chức hội vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng hoạt động:
1. Tăng cường củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức Hội:
Năm 2005, Đại hội CTĐ thành phố Bảo Lộc khoá III đã bầu BCH Thành hội gồm 27 UV, trong đó có 9 vị là Thường vụ Thành Hội (có 01 Chủ tịch, 01 phó chủ tịch, 01 UVTT). BCH khoá III đã đưa ra được qui chế hoạt động, phân công cho Thường trực, thường vụ, BKT và các uỷ viên BCH để thống nhất hành động thực hiện Nghị quyết của đại hội.
Để tiếp tục xây dựng Hội cơ sở vững mạnh, Thành hội chỉ đạo các hội cơ sở xã, phường và trường học trực thuộc tiến hành Đại hội nhiệm kỳ IV (2007 – 2012) theo điều lệ Hội sửa đổi với 11/11 xã phường và 04 trường học tổ chức đại hội và bầu ra 572 UVBCH cơ sở. Để củng cố BCH, Thường trực và thường vụ Thành hội năm 2008 Hội nghị BCH Hội CTĐ Bảo Lộc bầu bổ xung 06 UVBCH Thành hội do chuyển công tác và qua đời. BCH củng bầu bổ xung 02 UVTV, 02 UVBKT, để đảm bảo cho BCH hoạt động tốt theo đúng Điều lệ hội.
Hiện nay, Thường trực Thành hội vẫn duy trì 03 cán bộ biên chế chuyên trách, 01 cán bộ hợp đồng, 11 Chủ tịch CTĐ xã, phường được hưởng phụ cấp xã phường bán chuyên trách. Lực lượng cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách không ngừng phấn đấu học tập để nâng cao trình độ phục vụ tốt công tác hội. Thành hội và các hội cơ sở đã nghiên cứu, hoạt động theo các văn bản chỉ đạo của hội cấp trên bằng các chuyên đề, thực hiện giao ban hàng tháng chỉ đạo các hội cơ sở còn yếu từng bước tháo gỡ những khó khăn, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động của hội cơ sở triển khai hoạt động có hiệu quả.
Với những nổ lực nêu trên, tổ chức Hội đã được củng cố, kiện toàn và phát triển rộng khắp trên toàn thành phố tính đến nay toàn thành phố đã có:
+ 11/11 Hội cơ sở xã, phường đạt tỷ lệ 100%
+ 5/7 Trường PTTH (mới phát triển 02 trường) đạt tỉ lệ 60%
+ 119/119 chi hội CTĐ, khu phố, thôn buôn (trong đó có 05 chi hội buôn dân tộc) đạt tỉ lệ 100%
+ 40/40 chi hội trường học (THCS, tiểu học) đạt tỉ lệ 100%
Do hoạt động của Hội đạt được hiệu quả cao về công tác chăm lo đời sống, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển cộng đồng, uy tín của Hội ngày càng được củng cố và nâng cao; được nhiều người, nhiều tổ chức nhiệt tình tham gia vào những hoạt động của Hội. Vì vậy, số lượng hội viên ngày càng tăng lên: hiện nay có 7.783 HV (tăng 2.651 HV so với nhiệm kỳ trước). Các hội cơ sở đã kiểm tra chất lượng và đã cấp được 2.863 thẻ HV đạt tỉ lệ 55,7% (các đơn vị có tỷ lệ HV cao là phường II, phường I, Lộc Sơn, ĐạmB’ri, Đại Lào…).
Lực lượng thanh thiếu niên CTĐ đã thật sự phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của mình, thực hiện tốt những chương trình và công tác của Hội thể hiện đúng vai trò nòng cốt, đi đầu trong mọi hoạt động. Đặc biệt là lực lượng thanh niên CTĐ xung kích xã, phường và trường học đã làm tốt công tác tham gia hoạt động nhân đạo, công tác phòng chống dịch bệnh, công tác hiến máu nhân đạo, tham gia các chương trình y tế quốc gia cùng với ngành y tế địa phương. Lực lượng thiếu niên CTĐ xung kích trong trường học cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhân đạo trong và ngoài nhà trường, thông qua các công việc cụ thể như tổ chức gây quỹ giúp bạn vượt khó, vận động quyên góp ủng hộ nạn nhân chất độc dioxin, người tàn tật, mua những sản phẩm do những người mù làm ra… đặc biệt, còn tổ chức học tập về các kiến thức y học thông thường, sơ cấp cứu ban đầu, tham gia hoạt động của các tủ thuốc cấp cứu, bài trừ tệ nạn ma tuý học đường…
Hoạt động của Hội từng bước được củng cố và phát triển, thu hút đông đảo các đội, nhóm thanh thiếu niên đến nay đã có:
+ Số đội TNCTĐ xung kích xã, phường, trường học là 18 đội với 350 em
+ Số đội thiếu niên CTĐ xung kích trường học là 101 đội với 1.192 em.
Nhìn chung, trong nhiệm kỳ qua các cấp hội trong thành phố đã nổ lực vượt qua những khó khăn, trở ngại đã dẫn dắt phong trào CTĐ tại địa phương mình hoạt động có nề nếp, có hiệu quả những nhiệm vụ mà hội thực hiện, đã bám sát mục tiêu và nhiệm vụ của địa phương, phục vụ nhiệm kỳ kinh tế - chính trị - xã hội phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và đã đạt được những kết quả đáng kể. Qua kiểm tra đánh giá các hội cơ sở xã phường và một trường trực thuộc trong nhiệm kỳ qua, cụ thể là các hội cơ sở xã phường và 05 trường trực thuộc:
+ 8/16 đơn vị xã phường có hoạt động mạnh mẽ về mọi lĩnh vực, đạt tỷ lệ 50%
+ 7/16 đơn vị hoạt động khá, đạt tỷ lệ 44%
+ 1/16 đơn vị hoạt động trung bình, đạt tỷ lệ 6%
2. Công tác tuyên truyền:
Nhận thực rõ vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền kiến thức về Hội, Thành hội đã thực hiện tốt chỉ đạo của TW Hội, Tỉnh hội, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tại địa phương, trong nhiệm kỳ qua các hoạt động tuyên truyền nổi bật là:
- Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về các hoạt động của Hội trên các báo như: báo Lâm Đồng, Tạp chí Nhân đạo, Đài PT-TH Tỉnh, Đài PT-TH địa phương; các đợt phong trào cao điểm, các dự án, các chuyên đề của Hội, các ngày lễ kỷ niệm như 8/5 Ngày Quốc tế CTĐ, 23/11 Ngày Thành lập Hội CTĐ Việt Nam và các ngày lễ lớn khác của dân tộc.
- Tuyên truyền Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, hội viên trên toàn thành phố.
- Gửi báo viết, ảnh hoạt động của Hội về gương “Người tốt việc tốt” trên các báo TW và địa phương.
- Duy trì việc đặt mua Tạp chí Nhân đạo tháng 02 kỳ cung cấp cho các Hội CTĐ cơ sở, cơ quan Đảng, chính quyền và MTTQ thành phố, có 90% Hội cơ sở đặt mua Tạp chí Nhân đạo.
- Tổ chức tuyên truyền về Điều lệ Hội CTĐVN, Hội CTĐ Quốc tế bằng nhiều hình thức như tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Hội.
- Tuyên truyền giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chương trình “Vì người nghèo”, nạn nhân chất độc da cam, người khuyết tật, tuyên truyền vận động ủng hộ lũ lụt, hạn hán và ủng hộ nạn nhân động đất - sóng thần tại Nhật Bản, bão Castrina ở Mỹ, ủng hộ nhân dân CuBa.
- Ngoài những đợt tuyên truyền cao điểm, các Hội CTĐ xã, phường, trường học đã thường xuyên tổ chức nói chuyện tập trung, sinh hoạt chuyên đề về Hội, Điều lệ hội, tuyên truyền về các nội dung giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh mỗi năm bình quân có 1.316 buổi tuyên truyền cho 26.925 lượt người tham gia với trị giá gần 75.735.000đ.
3. Công tác huấn luyện – đào tạo cán bộ:
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng cán bộ, hội viên, thanh thiếu niên CTĐ xung kích, Thành hội được sự giúp đỡ của Tỉnh hội, Trung tâm BDCT thành phố, tổ chức các lớp tập huấn về nghiệp vụ chuyên môn, các Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ các kiến thức về y học, cụ thể trong nhiệm kỳ qua là:
+ Cử 80 cán bộ chủ chốt ở cơ sở (như CT, PCT hội cơ sở) tham gia tập huấn công tác hội tại Trung tâm đào tạo tại chức tỉnh Lâm Đồng và Trường Chính trị Tỉnh.
+ 01 cán bộ tham gia lớp công tác xã hội do TW Hội tổ chức.
+ 01 cán bộ học lớp nhận thức về Đảng CSVN.
+ 03 cán bộ được tập huấn công tác thực hiện các dự án do TW hội tài trợ
+ Kết hợp với TTBDCT thành phố mở 04 lớp về kiến thức Hội cho cán bộ chi hội cơ sở, giáo viên chuyên trách công tác CTĐ trường học, Đội trưởng TTNCTĐXK với 300 lượt người tham gia.
+ Tổ chức 06 lớp tập huấn về kiến thức Hội, kỹ năng sinh hoạt, sơ cấp cứu ban đầu cho 600 lượt, TTNCTĐ tham gia.
+ 02 lớp tập huấn về công tác phòng chống HIV-AIDS cho 120 lượt cán bộ, hội viên tham gia.
+ 03 lớp tập huấn về công tác điều tra nạn nhân chất độc da cam, về người tàn tật với 35 lượt cán bộ Hội tham gia, 01 lớp cho cán bộ và người nhà nạn nhân về công tác phục hội chức năng tại cộng đồng với 60 người tham gia.
+ Tại các chi hội CTĐ trường học tổ chức trên 1.500 buổi ngoại khoá cho học sinh TTNCTĐXK về kiến thức Hội, sơ cấp cứu ban đầu, một số bệnh thông thường vệ sinh sức khoẻ học đường… cho trên 20.000 lượt em tham gia.
+ Cán bộ và hội viên CTĐ Bảo Lộc tham gia học tập đầy đủ và triển khai các Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết và văn bản của Hội cấp trên.
4. Công tác thi đua, khen thưởng:
Hàng năm, các cấp Hội trong thành phố đều có phát động thi đua trong các đơn vị và cán bộ, hội viên, TTNCTĐXK. Qua phong trào thi đua, các đơn vị Hội cơ sở, chi hội thôn, buôn, khu phố, trường học đạt danh hiệu tiên tiến, tiên tiến xuất sắc ngày càng nhiều.
Đặc biệt qua công tác kiểm tra, phúc tra hàng năm nhằm mục đích đánh giá hiệu quả và sự tiến bộ của phong trào CTĐ là một điều cần thiết, vừa đánh giá đúng thực chất phong trào và phát hiện những nhân tố điển hình mới, mô hình hoạt động mới, vừa mang tính cách động viên, khuyến khích các cấp hội phần đấu hơn nữa trong sự nghiệp Nhân đạo.
Với những thành tích nổi bật trong hoạt động Hội, nhiệm kỳ vừa qua toàn hội đã được khen tặng bằng nhiều hình thức cụ thể:
+ Thành hội được nhiều giấy khen của TW hội,Tỉnh hội, của UBMTTQVN Tỉnh, UBND thành phố và UBMTTQ thành phố, cơ quan Thành hội được công nhận là công sở văn hóa.
+ Trung ương Hội tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp CTĐVN cho 07 cá nhân.
+ Bằng khen của TW Hội tặng 07 tập thể và 08 cá nhân.
+ UBND Tỉnh Lâm Đồng tặng 03 bằng khen cho 03 tập thể.
+ Hội CTĐ Tỉnh tặng giấy khen cho 23 tập thể và 44 cá nhân.
+ UBND thành phố tặng giấy khen cho 53 tập thể và 69 cá nhân.
+ Thành hội tặng giấy khen cho 139 tập thể và 293 cá nhân.
Ngoài ra còn nhiều hình thức khen thưởng khác của các ban ngành đoàn thể ở thành phố khen tặng, UBND xã, phường và trường học đã kịp thời khen thưởng, động viên các tập thể, cá nhân tích cực tham gia phong trào Hội.
III. Hoạt động quan hệ, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức trong và ngoài thành phố:
1. Công tác tham mưu, chỉ đạo của Hội chữ thập đỏ thành phố:
Trong nhiệm kỳ qua, công tác tham mưu đã được hội Chữ thập đỏ Bảo Lộc đặc biệt chú trọng, Hội đã tham mưu xây dựng báo cáo để Thành ủy tổng kết 22 năm thực hiện chỉ thị 14-CT/TU của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tham mưu để Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành các văn bản triển khai thực hiện chỉ thị 43-CT/TƯ của ban Bí thư Trung ương Đảng về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của Hội chữ thập đỏ Việt Nam”; tham mưu để các cấp ủy Đảng và chính quyền các xã, phường chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt của Hội Chữ thập đỏ các cấp tham mưu để Ủy ban nhân dân các địa phương thành lập Ban chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện, hỗ trợ kinh phí cho các xã, phường triển khai vận động hiến máu…
Công tác chỉ đạo của các cấp hội cũng có nhiều chuyển biến, đổi mới từ phong cách chỉ đạo đến công tác điều hành, lãnh đạo các cấp Hội đã tập trung hướng về cơ sở, đi sát cơ sở, cùng cơ sở chăm lo cho các đối tượng khó khăn nên đã tạo được bước chuyển quan trọng trong nổ lực kết nối những trái tim nhân ái, những vòng tay yêu thương về với ngôi nhà nhân ái Chữ thập đỏ.
2. Hoạt động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể:
Sự nghiệp Nhân đạo là sự nghiệp chung của toàn xã hội, sự phối hợp, liên kết nhằm tạo ra mặt trận Nhân đạo rộng khắp chính là yếu tố nội lực quyết định sự thành công của phong trào. Vì vậy, việc phối hợp giữa Hội CTĐ và các ban ngành, đoàn thể là một yếu tố tác động tích cực đến sự phát triển vững mạnh của toàn Hội. Trong những năm qua, Thành hội đã chủ động bàn bạc thống nhất với các ban ngành, đoàn thể để ký kết các văn bản liên tịch nhằm phát triển rộng rãi tổ chức hội, nâng cao chất lượng hoạt động Hội đạt hiệu quả cao hơn.
2.1. Đối với ngành Y tế:
Thành hội đã ký kết các văn bản liên tịch trong công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cụ thể là: công tác khám chửa bệnh nhân đạo, công tác tiêm chủng mở rộng, công tác nha học đường, phòng chống HIV-AIDS … Ngoài ra, còn kết hợp trong công tác điều trị, khám phân loại các nạn nhân chất độc da cam và người tàn tật, tiến hành phục hồi chức năng tại cộng đồng cho các đối tượng NNCĐDC và người tàn tật. Thành hội đã kết hợp với Bệnh viện II Lâm Đồng làm tốt công tác hiến máu nhân đạo, phẫu thuật chỉnh hình cho các nạn nhân, tổ chức “bếp ăn từ thiện” …
2.2. Chương trình phối hợp công tác CTĐ trường học:
Tiếp tục triển khai chương trình phối hợp giữa 3 ngành (CTĐ - ngành GD - Đoàn TNCSHCM) đã được ký kết, thông qua chương trình phối hợp đã quyết định sự phát triển phong trào CTĐ trường học qua những hoạt động nhân đạo trong nhà trường vừa góp phần giáo dục đạo đức và nếp sống mới đối với học sinh, vừa nâng cao chất lượng học tập. Đến nay, hoạt động CTĐ trường học đã thực sự phát huy hiệu quả và có những đóng góp xứng đáng góp phần vào thành tích chung của phong trào CTĐ toàn thành phố.
2.3. Chương trình phối hợp với Đoàn TNCSHCM:
Thông qua hoạt động của Đoàn, Hội LHTN và TTNCTĐXK đây là hoạt động thường xuyên gắn kết tổ chức thống nhất hành động cụ thể bằng các hoạt động sau: Tổ chức kết hợp công tác hoạt động “Mùa hè xanh”, “Tháng thanh niên” và các đợt công tác như: khám chữa bệnh nhân đạo, hiến máu nhân đạo, tập huấn cho đoàn viên thanh niên, giáo viên tổng phụ trách về kiến thức hội, phương pháp chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, sơ cấp cứu. Tổ chức hội trại, seminar, hoạt động giao lưu, tổ chức tập huấn, kiểm tra công tác Đoàn, hội, hội CTĐ trường học hàng năm…
2.4. Công tác phối kết hợp với UBMTTQ thành phố và các đoàn thể:
Đây là một trong những nhiệm vụ chung trong công tác tập họp quần chúng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư. Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã góp phần thực hiện xây dựng “tình làng, nghĩa xóm” giúp đỡ lẩn nhau những lúc khó khăn ngay trong cộng đồng dân cư ở địa phương bằng việc làm cụ thể: Công tác cứu trợ tại chỗ; công tác vận động “Vì người nghèo” như xây dựng nhà Đại đoàn kết, vận động ủng hộ lũ lụt, thiên tai trong và ngoài nước, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với cách mạng, các gia đình cựu chiến binh khó khăn và nhiễm chất độc da cam…
2.5. Phối hợp với các tổ chức xã hội trong và ngoài thành phố:
Để phát huy nguồn ngoại lực có hiệu quả, Hội đã tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài, mở rộng mối quan hệ và tiếp nhận nhiều nguồn ủng hộ của cá nhân, tổ chức từ thiện ở TP.HCM và các tổ chức tôn giáo trong việc cứu trợ, nâng cao hơn nữa công tác chữa bệnh cho đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa trong thành phố và các huyện lân cận.
IV. Đánh giá tổng quát và những kinh nghiệm của phong trào CTĐ thành phố Bảo Lộc nhiệm kỳ III (2005 – 2010):
1. Kết quả đạt được:
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, UBND thành phố, sự chỉ đạo của Hội cấp trên, sự phối hợp hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể, sự giúp đỡ các tổ chức trong và ngoài thành phố và với sự nổ lực vươn lên của toàn thể cán bộ, hội viên, thanh thiếu niên CTĐ xung kích, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Tổ chức Hội ngày càng được củng cố, kiện toàn từ Thành hội đến các hội cơ sở. Các chương trình phối hợp ngày càng được nâng cao về số lượng, chất lượng và chú trọng đến việc phát triển toàn diện Hội CTĐ cơ sở phát triển 100% tại xã, phường và trường học trực thuộc, 100% chi hội CTĐ thôn – buôn, khu phố 40/40 chi hội trường học đạt tỷ lệ 100%. Nhiều mô hình mới được nhân rộng ra trong toàn hội, nhiều nhân tố mới, tấm gương người tốt, việc tốt xuất hiện. Đó là những yếu tố cổ vũ, động viên, khích lệ và thu hút động đảo các tầng lớp nhân dân tham gia làm việc thiện.
Chất lượng hoạt động Hội ngày càng được nâng cấp và có hiệu quả thiết thực. Trong nhiệm kỳ III (2005-2011) hiệu quả hoạt động đã lên đến 16.565.592.301đ (tăng gấp 4 lần so với nhiệm kỳ trước). Trong đó, đặc biệt là công tác chăm sóc sức khoẻ và đời sống nhân dân, công tác phát triển cộng đồng. Trong những năm qua, hoạt động của Hội thật sự đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ở địa phương, phát huy truyền thống nhân ái tốt đẹp của dân tộc. Qua đó, Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc ngày càng khẳng định vị trí, vai trò đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đã góp phần tích cực vào trong cuộc phát triển KT-XH-CT ở địa phương.
2. Những hạn chế cần được khắc phục:
Ø Bộ máy tổ chức:
- Đội ngũ cán bộ từ Thành hội đến hội cơ sở còn thiếu, chưa đáp ứng với những yêu cầu, nhu cầu phát triển của phong trào CTĐ trong giai đoạn mới.
- Tổ chức Hội, nhất là cấp cơ sở hoạt động chưa đều, chưa vững chắc, tỷ lệ các đơn vị trung bình yếu còn cao, công tác phát triển Hội viên cả về số lượng và chất lượng còn chậm, việc nhân điển hình tiên tiến và áp dụng các mô hình mới chưa được nhiều.
- Việc tập trung chỉ đạo điểm chưa được Thành hội thực hiện thường xuyên, chưa có sự chỉ đạo sâu sát đến cơ sở.
- Hoạt động một số hội cơ sở xã, phường, trường học chưa thật sự chủ động, còn trông chờ vào cấp trên. Việc tổng kết đánh giá các hoạt động của Hội còn chưa đầy đủ và còn hạn chế dẫn đến báo cáo kết quả còn chậm.
Ø Công tác vận động:
- Công tác vận động từ các nguồn địa phương còn thấp chưa chủ động và phát huy được nội lực, nó đã ảnh hưởng đến việc cứu trợ thường xuyên cũng như đột xuất của Hội cơ sở mà chủ yếu dựa vào nguồn ngoại lực do hội cấp trên, các tổ chức trong và ngoài Tỉnh, các dự án của các tổ chức và hội cấp trên. Vấn đề này cần được các cấp hội không phải chỉ nhìn nhận suông mà cần phải nghiên cứu, tăng cường phát huy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, công tác vận động các nguồn lực địa phương từ đó tăng cường và phát huy truyền thống nhân ái, lá lành đùm lá rách, để góp phần vào chủ trương xây dựng cuộc sống văn hoá mới ở từng khu dân cư địa phương.
- Cán bộ hội cơ sở chưa được đào tạo căn bản, hiểu biết về công việc của hội chưa sâu nên công tác hội còn nhiều hạn chế, trong những năm đầu của nhiệm kỳ còn khó khăn về cơ chế chính sách đối với cán bộ cơ sở cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả của phong trào. Công tác vận động quần chúng, công tác tuyên truyền chưa được đẩy mạnh do đó, chưa thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào Hội không duy trì ổn định lực lượng cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, TTN Chữ thập đỏ xung kích.
- Sự phối hợp hoạt động giữa các ban ngành, đoàn thể và Thành hội cũng như hội cơ sở chưa chặt chẽ và thường xuyên, thậm chí còn một số hoạt động chồng chéo, từ đó chưa thật sự phát huy tác dụng của công tác phối kết hợp.
3. Nguyên nhân của sự tiến bộ, hạn chế và những kinh nghiệm:
Ø Nguyên nhân của sự tiến bộ:
- Do được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ đúng mức của các ban ngành, đoàn thể, sự tín nhiệm và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân… đã tạo điều kiện cho Hội hoạt động.
- Sự giúp đỡ kịp thời, có hiệu quả của TW hội, Tỉnh hội, các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố, các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, … đã giúp đỡ cho hội về vật chất và tinh thần để hội thực hiện có hiệu quả hoạt động xã hội, nhân đạo…
- Sự phấn đấu, nổ lực vươn lên của toàn thể cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, TTNCTĐXK toàn thành phố là một tập hợp sức mạnh khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ của Hội trong nhiệm kỳ qua.
Ø Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại:
- Một số cấp ủy và chính quyền địa phương còn chưa có sự quan tâm đúng mức đối với công tác Hội, có nơi có lúc còn cho việc từ thiện xã hội là việc của khối Dân vận và Mặt trận, phần lớn ý kiến tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền địa phương của một số cán bộ cơ sở chưa tốt, còn nhiều hạn chế và thiếu sót, về hoạt động của hội.
- Việc tổ chức thực hiện các chương trình hoạt động tại một số Hội cơ sở chưa tốt, thiếu nhạy bén, thiếu tính chủ động. Nhân lực thiếu, kinh phí và phương tiện hoạt động chưa đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới.
4. Những kinh nghiệm trong hoạt động của Hội nhiệm kỳ qua:
- Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền luôn luôn là nhân tố quyết định cho sự phát triển và trưởng thành của Hội CTĐ thành phố Bảo Lộc. Qua thực tế cho thấy, nơi nào có sự quan tâm đúng mức, nơi đó có phong trào mạnh. Nhưng muốn tranh thủ được sự quan tâm ấy, các cấp Hội cần phải làm tốt công tác tham mưu, chủ động trong hoạt động Hội và phải tự mình khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Hội bằng các hoạt động có hiệu quả thiết thực.
- Hoạt động của Hội phải thực sự thiết thực và thực hiện tốt sự lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, phải gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng các nhu cầu bức xúc của nhân dân trong từng hoàn cảnh cụ thể.
- Hoạt động của Hội phải lấy Hội cơ sở làm điểm xuất phát, có như vậy mới phát huy hết nội lực, tiềm năng và sức mạnh trong nhân dân, Hội cơ sở vững mạnh là yếu tố then chốt quyết định sự lớn mạnh của toàn Hội. Như vậy, toàn Hội cần phải làm những công việc sau:
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và đạo đức, vững vàng về chuyên môn, có năng lực vận động quần chúng… để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng cao của công tác Hội.
+ Tiếp tục sự phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với các ban ngành, đoàn thể là một yếu tố rất cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và xã hội hoá công tác từ thiện, nhân đạo.
+ Hoạt động nhân đạo không thể thiếu yếu tố vật chất, do đó, các cấp Hội cần phải tăng cường hơn nữa công tác gây quỹ Hội, tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng mối quan hệ với các tổ chức từ thiện trong và ngoài thành phố, dựa vào sức mạnh của nhân dân từ đó tạo sức mạnh tổng hợp để Hội có khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Leave a Comment